1. Mặt khách quan của tội phạm là gì
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực của xã hội, tồn tại trong xã hội và do con người trong xã hội thực hiện thông qua hành vi cụ thể và có thể gây ra những hậu quả nhất định cho xã hội. Khi thực hiện, tội phạm luôn phản ánh khách quan những biểu hiện cụ thể, giúp con người nhận biết, đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của nó.
Yếu tố thuộc về mặt khách quan của tội phạm là yếu tố tồn tại không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người, được hình thành do quá trình phạm tội của con người, luôn có đặc tính phản ánh, do đó, khi xác định có hay không có tội phạm, chúng ta phải dựa vào những biểu hiện khách quan của tội phạm, từ đó xác định mối liên hệ với các yếu tố cấu thành tội phạm khác.
Tóm lại, mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm: hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội.
Việc xác định những biểu hiện thuộc về mặt khách quan có ý nghĩa quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và xác định hình phạt.
Hành vi khách quan và một số dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm như hậu quả, phương pháp, thủ đoạn phạm tội được phản ánh là dấu hiệu bắt buộc. Việc nghiên cứu, xác định chúng có ý nghĩa về mặt định tội. Ví dụ: Trong tội cướp tài sản, mặt khách quan của tội phạm phải biểu hiện hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được” nhằm chiếm đoạt tài sản thì mới thỏa mãn tội phạm.
Trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội, một số biểu hiện trong mặt khách quan như hậu quả, phương pháp, thủ đoạn, công cụ… được phản ánh là dấu hiệu định khung. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Ví dụ: điểm l khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội giết người có quy định tình tiết “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” là tình tiết định khung tăng nặng.
Một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là biểu hiện trong mặt khách quan của tội phạm. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Ví dụ: điểm m khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định tình tiết tăng nặng là “dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội”. Đây là tình tiết tăng nặng, là một trong bốn căn cứ Tòa án dựa vào để quyết định hình phạt.
2. Hành vi khách quan của tội phạm
2.1. Khái niệm
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể. Hay nói cách khác, hành vi khách quan của tội phạm là xử sự trái pháp luật hình sự của chủ thể trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Xử sự này gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
Các đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm:
– Có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội thể hiện ở bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Ở các tội phạm cụ thể, tính nguy hiểm đáng kể thể hiện một cách định lượng (qua dấu hiệu định tội có hậu quả) hoặc mang tính định tính (qua dấu hiệu định tội chỉ có hành vi). Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội là đặc điểm cơ bản để phân biệt hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
– Tính trái pháp luật hình sự. Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi thể hiện tính trái pháp luật hình sự. Điều này thể hiện việc chủ thể thực hiện các hành vi mà pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện các hành vi mà pháp luật hình sự yêu cầu. Trong khoa học luật hình sự, biểu hiện này của hành vi được thể hiện dưới dạng hành động phạm tội và không hành động phạm tội.
– Là hành vi có ý thức và ý chí. Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải có khả năng nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra nguy hiểm cho xã hội tuy nhiên vẫn thực hiện, họ có khả năng điều khiển hành vi và đưa ra cách xử sự khác cho phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi của xã hội. Hay nói cách khác, khi thực hiện hành vi phạm tội, ý chí và lý trí của người phạm tội phải được thể hiện rõ mà không bị sự tác động khách quan nào làm hạn chế hoặc vô hiệu hóa nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
2.2. Các hình thức của hành vi khách quan của tội phạm
2.2.1. Hành động phạm tội
Hành động phạm tội là hình thức biểu hiện của hành vi phạm tội để làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, qua đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Hành động phạm tội được thể hiện thông qua việc chủ thể thực hiện một hoặc nhiều hành vi mà luật hình sự cấm thực hiện.
Qua việc nghiên cứu các hành vi phạm tội, đối với hành động phạm tội thường thể hiện ở các dạng cụ thể sau:
– Chủ thể thực hiện tội phạm bằng cách tác động trực tiếp vào đối tượng tác động. Ví dụ: A dùng tay bóp cổ B cho đến lúc B chết.
– Chủ thể thực hiện tội phạm thông qua công cụ, phương tiện. Ví dụ: A dùng súng bắn vào đầu B dẫn đến B tử vong.
– Chủ thể thực hiện tội phạm thông qua lời nói. Ví dụ: A dùng lời lẽ đe dọa sẽ giết B, khiến B tin đó là sự thật và lo sợ.
– Chủ thể thực hiện tội phạm thông qua người không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc thông qua người không có năng lực trách nhiệm hình sự, hoặc những người bị cưỡng bức về thể chất hoặc tinh thần. Ví dụ thứ nhất: A (20 tuổi) đưa cho B (13 tuổi) 01 triệu đồng nhờ B vận chuyển 01 kg heroine từ địa bàn này sang địa bàn khác; ví dụ thứ hai: A dùng súng dí vào đầu B, bảo B phải ném lựu đạn vào nhà C, nếu không A sẽ bắn chết B.
2.2.2. Không hành động phạm tội
Không hành động phạm tội là biểu hiện thứ hai của hành vi khách quan, theo đó, không hành động phạm tội là hành vi làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật hình sự yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp không hành động gây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo về đều phạm tội. Chỉ được xem là không hành động phạm tội khi thoả mãn các điều kiện sau:
– Chủ thể phải có nghĩa vụ hành động. Nghĩa vụ hành động đó xuất phát do nghĩa vụ do Nhà nước quy định, ví dụ như nghĩa vụ đóng thuế; nghĩa vụ quân sự…; nghĩa vụ do chức năng, nghề nghiệp bắt buộc
thực hiện. Ví dụ: Trách nhiệm cứu chữa bệnh nhân của bác sĩ, nghĩa vụ bảo vệ tài sản của người bảo vệ…; nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Ví dụ: Hợp đồng thuê giữ trẻ làm phát sinh nghĩa vụ trông coi, chăm sóc trẻ…; nghĩa vụ phát sinh từ xử sự trước đó của chủ thể, như trách nhiệm pháp lý cứu người khi gây ra tại nạn giao thông của chủ thể điều khiển phương tiện giao thông.
– Chủ thể phải có khả năng (điều kiện) để thực hiện nghĩa vụ. Điều này đòi hỏi trong những trường hợp nghĩa vụ phát sinh, chủ thể phải có khả năng để thực hiện nghĩa vụ đó, nếu không có khả năng thực hiện thì không phạm tội. Ví dụ: A không biết bơi, thấy B bị đuối nước ở dưới sông kêu cứu mà A không cứu dẫn đến B chết, trong trường hợp này A không phạm tội.
Trong Bộ luật Hình sự, phần lớn các tội phạm được thực hiện bằng hình thức hành động; có một số tội phạm chỉ thực hiện bằng không hành động như tội trốn thuế, tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…; cũng có một số tội vừa thực hiện bằng hành động vừa bằng không hành động như tội giết người, tội huỷ hoại tài sản… điều này phụ thuộc vào đặc trưng hành vi của từng tội phạm và dấu hiệu định tội của nó.
3. Hậu quả của tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do đó khi thực hiện, tội phạm luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại trên thực tế. Để đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, yếu tố hậu quả đóng vai trò rất quan trọng.
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để xác định mức độ hậu quả của tội phạm, chúng ta phải xác định mức độ làm biến đổi tìnhtrạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm ở thời điểm trước và sau khi tội phạm xảy ra luôn có sự thay đổi về trạng thái tự nhiên hoặc trạng thái pháp lý.
Hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở các dạng như: Giệt hại vật chất; thiệt hại về thể chất; thiệt hại tinh thần; thiệt hại về phi vật chất.
Việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa pháp lý quan trọng. Đối với cấu thành tội phạm vật chất, việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa trong việc định tội, còn đối với cấu thành tội phạm tăng nặng phản ánh dấu hiệu hậu quả của tội phạm, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Ngoài ra, dấu hiệu hậu quả được phản ánh trong một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt của Tòa án.
4. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm).
Dựa vào cơ sở lý luận của cặp phạm trù nhân quả trong phép biện chứng có thể xác định được các điều kiện của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm như sau:
– Hành vi phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Điều này, có ý nghĩa để xác định tội phạm, định tội, định khung. Ví dụ: A bị tai biến, được đưa đi cấp cứu, trên đường đưa đi cấp cứa A đã tử vong, sau khi A tử vong, thì xe ô tô của B tông vào xe cấp cứu đang chở A. Trong trường hợp này, chúng ta phải xác định hậu quả A chết trước hành vi gây tai nạn của B, do đó, tình tiết về hậu quả này không có ý nghĩa pháp lý khi xem xét trách nhiệm pháp lý của B.
– Hành vi phải chứa đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả. Đây là điều kiện để chứng minh khả năng phát sinh hậu quả của hành vi, nếu thực tế loại trừ khả năng này thì không có mối quan hệ nhân quả.
– Hậu quả xảy ra phải là hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi. Việc xác định hậu quả phải đặt trong mối quan hệ với hành vi, đánh giá hậu quả là khả năng hiện thực phát sinh từ hành vi khách quan của tội phạm.
Mối quan hệ nhân quả được thể hiện ở các dạng chủ yếu sau:
– Mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp: là mối quan hệ nhân quả chỉ có một hành vi phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả.
Ví dụ: A dùng dao đâm B, B bị thương với tỷ lệ thương tật là 20%.
– Mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp: là quan mối hệ nhân quả có nhiều hành vi phạm tội làm nguyên nhân, trong đó, mỗi hành vi đều đã chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả.
Ví dụ: A và B dùng gậy gây thương tích cho M (tỷ lệ thương tích 30%). Trường hợp này, nếu tách ra mỗi hành vi đều có khả năng gây ra hậu quả cho M. Tuy nhiên, trong sự kết hợp với nhau thì đã gây ra một hậu quả chung là M bị thương tật tỷ lệ 30%.
Đối với những tội phạm có gây ra hậu quả, thì phải chứng minh mối quan hệ nhân quả, dù dấu hiệu hậu quả được xác định dùng để định tội, định khung hay tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
5. Những biểu hiện khác trong mặt khách quan của tội phạm
Biểu hiện khác trong mặt khách quan bao gồm: công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội.
Công cụ, phương tiện phạm tội là những đối tượng vật chất được chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng tác động của tội phạm trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Trong Bộ luật Hình sự có một số ít tội quy định công cụ, phương tiện được là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Ví dụ: Phương tiện vật chất là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ tại Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thủ đoạn phạm tội là cách thức thực hiện tội phạm được biểu hiện thông qua việc thực hiện hành vi dựa trên sự khôn khéo, tinh vi có tính toán của người phạm tội. Dấu hiệu này có thể dùng để định tội, ví dụ như: “thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hoặc có thể là tình tiết định khung tăng nặng như tình tiết “dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm” tại điểm d khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, hoặc cũng có thể là tình tiết tăng nặng tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ngoài ra, trong mặt khách quan của tội phạm còn biểu hiện về thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội và hoàn cảnh phạm tội. Tùy vào từng tội phạm cụ thể để xác định vai trò pháp lý của những dấu hiệu này.
Xem thêm: Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố cấu thành tội phạm