1. Khách thể của tội phạm là gì?
Pháp luật hình sự Việt Nam được ban hành nhằm bảo vệ những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa, của các tổ chức và cá nhân trong xã hội bị tội phạm xâm phạm đến. Những quan hệ xã hội được bảo vệ này chính là khách thể của tội phạm.
Khách thể của tội phạm là một yếu tố hợp thành nên tội phạm, bất kỳ tội phạm nào cũng gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đối với những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Những quan hệ này được pháp luật ghi nhận tại khoản 1 Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đó là: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, không phải quan hệ xã hội nào cũng được luật hình sự bảo vệ, mà chỉ những quan hệ trên mới được luật hình sự bảo vệ và là khách thể của tội phạm. Đây chính là những quan hệ xã hội mà Nhà nước muốn duy trì, bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bị tội phạm xâm hại đến bằng cách gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đối với quan hệ xã hội ấy.
Luật hình sự không bảo vệ tất cả các quan hệ xã hội, chỉ những quan hệ xã hội quan trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, đến những lợi ích cơ bản của điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội của đất nước mới được luật hình sự bảo vệ.
Việc nghiên cứu và nắm bắt khái niệm khách thể có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức và vận dụng để giải quyết các vụ phạm tội, cụ thể:
– Khách thể của tội phạm thể hiện bản chất của Nhà nước. Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do đó, thông qua các lợi ích được luật hình sự bảo vệ, chúng ta sẽ thấy được tính giai cấp và tính xã hội của Nhà nước. Pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
– Khách thể của tội phạm là một trong những căn cứ để định tội đối với hành vi phạm tội. Cùng với các yếu tố khác của cấu thành tội phạm, khách thể góp phần vào việc định tội danh, sẽ không có tội phạm nếu như hành vi phạm tội không xâm phạm đến quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
– Khách thể là cơ sở để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Dựa vào các quan hệ xã hội mà tội phạm xâm phạm đến có thể đánh giá được tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, điều này thể hiện rõ qua các nhóm tội phạm cũng như các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự.
– Khách thể của tội phạm là một trong những căn cứ quan trọng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Mỗi vi phạm pháp luật xâm phạm đến những lợi ích khác nhau và tính chất, mức độ cũng khác nhau.

2. Phân loại khách thể của tội phạm
Luật hình sự Việt Nam dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng để phân loại khách thể của tội phạm, đó là sự vận dụng cặp phạm trù cái chung, cái riêng và cái đơn nhất để xem xét, đánh giá khách thể của tội phạm. Trên cơ sở đó, khách thể của tội phạm được phân ra làm ba loại: (1) khách thể chung; (2) khách thể loại; (3) khách thể trực tiếp. Sự phân loại này chính là phương pháp để xác định khách thể của tội phạm trong các vụ án hình sự, giúp hoạt động định tội danh được chính xác.
2.1. Khách thể chung của tội phạm
Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ trước hành vi xâm hại của tội phạm.
Tổng thể các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ ghi nhận tại khoản 1 Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc xác định khách thể chung của tội phạm, có thể thấy được phạm vi các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ cũng như thấy được chính sách hình sự của Nhà nước. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội của đất nước, pháp luật hình sự sẽ bảo vệ những lợi ích cơ bản và quan trọng khác nhau.
2.2. Khách thể loại của tội phạm
Khách thể loại của tội phạm là một nhóm các quan hệ xã hội có tính chất tương đồng nhau, được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ trước sự xâm phạm của một nhóm các tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Trên cơ sở khách thể chung, Bộ luật Hình sự quy định các nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất, tương đồng nhau bị tội phạm xâm hại
vào các chương tội phạm cụ thể. Ví dụ: Chương XIII của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia; Chương XIV quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người…
Việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự thành từng chương, giúp cho việc tiếp cận và xác định các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm đơn giản hơn, trên cơ sở đó xác định tội phạm cụ thể.
2.3. Khách thể trực tiếp của tội phạm
Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể, được được luật hình sự bảo vệ trước sự xâm hại của một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Tội phạm khi thực hiện, luôn xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể. Các quan hệ xã hội này được thể hiện trong các chương thuộc phần các tội phạm. Muốn xác định được tội danh cụ thể đối với hành vi phạm tội, cần phải xác định được lợi ích cụ thể, trực tiếp bị tội phạm xâm hại là gì.
Tùy vào tính chất đặc trưng của mỗi loại tội phạm, có tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp, có tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp. Ví dụ: Tội giết người tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ có một khách thể trực tiếp, đó là tội phạm xâm phạm đến tính mạng (quyền sống) của người khác được luật hình sự bảo vệ; Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là tội có nhiều khách thể trực tiếp, ngoài việc xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, tội phạm còn xâm phạm đến quyền nhân thân và quyền sở hữu tài sản, đối với những tội phạm này, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm chỉ được thể hiện đầy đủ khi xâm phạm đến các quan hệ xã hội cụ thể trên.
3. Đối tượng tác động của tội phạm
3.1. Khái niệm
Người phạm tội khi thực hiện hành vi, luôn tác động lên những đối tượng cụ thể và thông qua việc tác động này tội phạm đã xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Ví dụ: A muốn giết B thì phải tác động lên cơ thể, con người đang sống của B và B chính là đối tượng tác động của tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm được hiểu là một bộ phận khách thể của tội phạm mà khi tác động lên nó, người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Khách thể của tội phạm chính là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, các bộ phận hợp thành khách thể của tội phạm cũng chính là các bộ phận hợp thành của các quan hệ xã hội. Các bộ phận hợp thành của quan hệ xã hội đó là: con người là chủ thể của quan hệ xã hội; các đối tượng vật chất là lợi ích mà các chủ thể hướng tới là khách thể của quan hệ xã hội; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là nội dung của quan hệ xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm có thể là một trong ba bộ phận trên của khách thể của tội phạm.
Việc xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa quan trọng. Vì trong các vụ án hình sự, cơ sở để xác định mức độ thiệt hại mà tội phạm gây ra phải dựa vào mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, qua đó thấy được mức độ nguy hiểm của tội phạm gây ra đối với các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Ngoài ra, trong nhiều tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm còn đóng vai trò là dấu hiệu định tội. Ví dụ: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả; Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia.
3.2. Các loại đối tượng tác động của tội phạm
Đối tượng tác động của tội phạm bao gồm các biểu hiện như sau:
– Con người với tư cách là chủ thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Trong tội giết người, người thực hiện hành vi phạm tội thông qua việc tác động vào con người (một thực thể tự nhiên đang tồn tại), đã xâm phạm đến tính mạng – quyền sống của con người được luật hình sự bảo vệ.
– Các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Ở các tội xâm phạm sở hữu, để xâm phạm quyền sở hữu, người phạm tội phải tác động vào tài sản (đối tượng vật chất).
– Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là nội dung của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Tội đưa hối lộ, người phạm tội khi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, bình thường của cơ quan nhà nước thì phải tác động đến quyền và nghĩa vụ của chủ thể có chức vụ, quyền hạn.
Tùy vào từng tội phạm cụ thể, khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội chỉ tác động đến một loại đối tượng, cũng có thể tác động đến nhiều loại đối tượng khác nhau.
Xem thêm: Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố cấu thành tội phạm