1. Tái thẩm trong vụ án hình sự là gì?
Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.
Cũng như giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà là thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự. Đối tượng tái thẩm cũng như giám đốc thẩm đều là bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu giám đốc thẩm được tiến hành trên cơ sở kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì dấu hiệu cơ bản để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là việc phát hiện ra tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định. Nếu thủ tục giám đốc thẩm được áp dụng nhằm khắc phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án do đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm tội, do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ luật Hình sự thì thủ tục tái thẩm được áp dụng nhằm bảo đảm cho vụ án được giải quyết chính xác do mới phát hiện được những tình tiết mà Tòa án không biết khi ra bản án, quyết định. Các tình tiết mới này phải thỏa mãn hai điều kiện: (i) Tình tiết mới này phải làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định. Nếu tình tiết mới không làm thay đổi nội dung của bản án hoặc quyết định thì không dẫn đến việc kháng nghị tái thẩm; (ii) khi ra bản án, quyết định, Tòa án hoàn toàn không biết về các tình tiết này.

2. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong vụ án hình sự
2.1. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Điều 398 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, đó là:
– Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;
Đây là những nguồn chứng cứ quan trọng đối với vụ án. Nếu lời khai của người làm chứng hay kết luận giám định, định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật sẽ dẫn đến làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án thì lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch đó là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
– Có tình tiết mà Điểu tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nếu có những tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai thì sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, phát hiện ra tình tiết này thì đây là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
– Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đổ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật.
Đây là những nguồn chứng cứ quan trọng đối với vụ án. Tuy nhiên, nếu vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật thì sẽ dẫn đến làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, những tình tiết này được phát hiện sẽ là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
– Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
2.2. Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện
Điều 399 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Trường hợp Tòa án nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện tình tiết mới của vụ án thì phải thông báo ngay bằng văn bản kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.
Sau khi có quyết định của lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên tiến hành xác minh những tình tiết mới đó. Khi xét thấy cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh tình tiết mới của vụ án và chuyển kết quả xác minh cho Viện kiểm sát.
Khi tiến hành xác minh tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các biện pháp điều tra bổ sung theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.3. Thẩm quyên kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Theo quy định tại Điểu 400 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ có Viện kiểm sát mà không quy định cho Tòa án. Cụ thể, thẩm quyền kháng nghị quy định cho các chủ thể sau:
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
– Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Khi có tình tiết mới được phát hiện, Tòa án không thể là cơ quan có thẩm quyển vừa điểu tra, xác minh, làm rõ những tình tiết mới đó vừa lại là cơ quan xét xử sau đó. Vì vậy, điều luật quy định chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thuộc về Viện kiểm sát.
2.4. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Theo quy định tại Điều 401 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
– Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và thời hạn kháng nghị không được quá 01 năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.
– Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được thực hiện cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
– Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
2.5. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm
Theo quy định tại Điều 402 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng tái thẩm có quyền ra quyết định:
– Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
Trong trường hợp xác minh không có căn cứ quy định tại Điều 398 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tình tiết được phát hiện không làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định, Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
– Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Nếu các tình tiết mới được phát hiện là căn cứ để kháng nghị tái
thẩm được xác định làm thay đổi nội dung vụ án, cần phải có kết quả điều tra lại từ đầu hoặc xét xử lại từ đầu để giải quyết vụ án thì Hội đồng tái thẩm hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại.
– Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.
Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đó là khi xác định có căn cứ để đình chỉ vụ án như hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm đã được đại xá, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết… thì Hội đồng tái thẩm hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.
– Đình chỉ việc xét xử tái thẩm
Hội đồng tái thẩm đình chỉ việc xét xử tái thẩm nếu người kháng nghị tái thẩm rút toàn bộ kháng nghị tái thẩm.