1. Tạm giam là gì?
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng hay bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và những trường hợp khác khi có căn cứ theo quy định của pháp luật.
Với mục đích ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành kịp thời, đúng pháp luật, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, tạm giam là biện pháp có tính chất “lựa chọn” tức là “có thể áp dụng” đối với bị can, bị cáo khi hội tụ đủ các căn cứ và những căn cứ này chỉ là điều kiện để áp dụng biện pháp tạm giam.
So với các biện pháp ngăn chặn khác thì, tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm bảo đảm cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.

2. Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp sau:
2.1. Tạm giam áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng
Đây là trường hợp bị can, bị cáo về tội mà theo quy định của Bộ luật Hình sự, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:
– Người bị áp dụng phải là bị can hoặc bị cáo;
– Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
2.2. Tạm giam áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng
Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ xác định người đó ở vào một trong các trường hợp sau:
– Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm. So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bỏ những căn cứ mang tính chất chung chung như “cản trở điều tra, truy tố, xét xử…”, khó xác định và thay vào đó là căn cứ mang tính định lượng cụ thể, dễ xác định, bổ sung trường hợp “Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm”. Đây là trường hợp bị can, bị cáo đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú… nhưng đã vi phạm nghĩa vụ đã cam kết như tiếp tục phạm tội, không có mặt khi được triệu tập…;
– Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội. Nơi cư trú là nơi thường trú hoặc tạm trú theo quy định của Luật Cư trú mà người bị tạm giam sinh sống trước khi bị tạm giam. Nơi cư trú rõ ràng là nơi cư trú có địa chỉ được xác định cụ thể. Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc.
– Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Việc Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam như trên góp phần vào việc hạn chế sự tùy tiện và lạm dụng áp dụng biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như yêu cầu cải cách tư pháp đã được xác định rõ trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “Xác định rõ căn cứ để tạm giam, hạn chế áp dụng biện pháp tạm gỉam đối với một số loại tội phạm”.
2.3. Tạm giam áp dụng đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng
Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng; Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng có mức hình phạt quy định trong Bộ luật Hình sự đến 02 năm tù nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
Nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 khi những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng có mức hình phạt quy định trong Bộ luật Hình sự đến 02 năm tù không thể áp dụng được biện pháp tạm giam, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định bổ sung trường hợp tạm giam. Đó là, tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm, nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
– Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
– Bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
– Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Xem thêm: Tạm giam áp dụng khi nào? Thời hạn tam giam tối đa là bao lâu?
Xem thêm: Thời hạn tạm giam để điều tra là bao lâu?
3. Thẩm quyền ra lệnh, quyết định tạm giam
Theo quy định tại khoản 5 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
– Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Lệnh tạm giam của thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra là ba ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hổ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
Xem thêm: 10 biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự