Cấu thành tội phạm của tội đánh bạc
1. Căn cứ pháp lý
Tội đánh bạc được quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017):
Điều 321. Tội đánh bạc
1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
2. Cấu thành tội phạm của tội đánh bạc
2.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm vào trật tự an toàn công cộng.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Đánh bạc được hiểu là nhiều người (ít nhất là từ hai người trở lên) cùng tham gia và thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào với hình thức được thua bằng tiền hoặc hiện vật, có thể là vàng, bạc, đá quý, xe máy, ô tô …
Các hình thức đánh bạc có thể là đánh hài, tồ tôm, xóc đĩa, đánh ba cây, cá độ bóng đá…
Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi có một trong các điều kiện sau:
(1) được thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên; (2) đã bị kết án về tội này hoặc tội được quy định tại Điều 322 BLHS mà chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Điều 321 BLHS quy định: người nào đánh bạc trái phép – đây là một điểm mới, mới được sửa đổi trong luật. Trước đây mọi hành vi đánh bạc đều bị coi là vi phạm pháp luật, tuy nhiên chúng ta vẫn cho tồn tại một số sòng bạc (casino) cho người nước ngoài chơi bạc. Theo đó, những hành vi đánh bạc mà không được pháp luật cho phép mới cấu thành tội phạm. Còn những hành vi đánh bạc, được pháp luật cho phép thì không bị xử lý hình sự
Khi truy tố, xét xử người có hành vi đánh bạc cần chú ý một số vấn đề quan trọng sau:
– Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2 triệu đồng) và không thuộc các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa bị kết án về tội này hoặc Điều 322 của BLHS thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm pháp lý về tội
đánh bạc.
– Trường hợp đánh bạc từ 2 lần trở lên, mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
– Trường hợp đánh bạc từ 5 lần trở lên, mà tổng số tiền, hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra người phạm tội còn lấy tiền, hiện vật do phạm tội mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung tăng nặng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 321 BLHS
* Khi truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ cá ngựa… cần phân biệt một số trường hợp sau:
– Một lần chơi số đề, một lần chơi cá độ bóng đá, một lần chơi cá độ đua ngựa… (để tính là một lần đánh bạc) được hiểu là tham gia chơi một lô để, tham gia cá độ trong một trận bóng, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa… trong đó người chai có thể chơi thành nhiều đợt. Trách nhiệm hình sự đối với người chơi một lần đánh bạc trong các trường hợp này là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó.
– Số tiền, giá trị hiện vật của người chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa… với nhiều người là tổng số tiền, giá trị hiện vật mà họ và những người chơi khác dùng để đánh bạc.
Ví dụ: A là chủ đề của 5 người chơi đề khác nhau, mỗi người mời chơi đề với số tiền là 20.000 đồng. Neu với tỷ lệ chơi 1/70 (1 ăn 70) thì số tiền được xác định là đánh bạc như sau:
+ Tiền dùng để đánh bạc của một người chơi số đề với A sẽ được xác định là một triệu bốn trăm hai mươi ngàn đồng. Như vậy: 20.000 đồng (tiền cùa người chơi dùng để đánh bạc) + 20.000 đ x 70 lần = 1.420.000 đồng.
+ Tiền dùng để đánh bạc của A với năm người chơi đề là bảy triệu một trăm ngàn đồng (1.420.000 đ X 5 = 7.100.000 đồng)
2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, nhằm thu lợi bất chính.
2.4. Chủ thể của tội phạm
Là người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
3. Hình phạt
* Khung cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS có mức phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
* Khung tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 321 BLHS có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm áp dụng cho các trường hợp sau: có tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm.
* Khoản 3 (hình phạt bổ sung): người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.