1. Khái niệm và các loại (hình thức) giải thích pháp luật
Để pháp luật được thực hiện đầy đủ, chính xác điều quan trọng trước hết là phải nhận thức đúng, chính xác, đầy đủ nội dung của các quy phạm pháp luật. Muốn làm được điều đó thì phải tiến hành giải thích pháp luật.
Giải thích pháp luật là làm sáng tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật. Chính vì vậy, giải thích pháp luật được tiến hành thường xuyên trong quá trình xây dựng pháp fuật, quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Giải thích pháp luật là hoạt động có tác động tích cực đối với việc tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật.
Giải thích pháp luật không đơn thuần là hoạt động nhằm nhận thức đúng nội dung của pháp luật. Nó cũng là vũ khí đấu tranh tư tưởng. Điều này thể hiện rõ khi phân tích mục đích của giải thích pháp luật trong xã hội tư sản. Ở đó việc giải thích còn nhằm che đậy bản chất thực sự của pháp luật. giải thích sao cho việc áp dụng nó trở nên có lợi nhất cho giai cấp tư sản. V.I. Lênin đã vạch trần điều này là ở xã hội tư bản có “hàng ngàn luật sư và công chức tư sản biết cách giải thích pháp luật sao cho công nhân và nông dân bình thường không thể phá được cái hàng rào dây thép gai do những pháp luật đó dựng lên”.
Giải thích pháp luật trong xã hội xã hội chủ nghĩa là nhằm làm rõ nội dung, bản chất thật sự của pháp luật, làm cho mọi người hiểu và thực hiện pháp luật theo đúng các yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Phụ thuộc vào chủ thể tiến hành giải thích và đặc trưng của sự giải thích. Có thể chia giải thích pháp luật ra hai loại hình thức: giải thích không chính thức và giải thích chính thức.
1.1. Giải thích không chính thức
Đó là sự giải thích tinh thần, nội dung của các quy phạm pháp luật nhưng không mang tính chất bắt buộc phải xử sự theo cách giải thích đó. Loại giải thích này có thể được tiến hành bởi mọi cá nhân, tổ chức bất kỳ. Nội dung lời giải thích không chính thức không có ý nghĩa về riặt pháp lý, mà chỉ có tính chất giúp mọi người hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật. Nó không có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước có thẩn quyền áp dụng pháp luật. Nhưng giải thích không chính thức, đặc biệt là sự giải thích của các nhà khoa học pháp lý, các luật gia cũng có tác dụng quan trọng tới ý thức pháp luật của các chủ thể pháp luật, và thông qua đó, tới hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. Chúng ta thường gặp giải thích pháp luật không chính thức của các nhà chính trị, các nhà hoạt động khoa học, xã hội…trên đài, báo, trong các sách chuyên khảo pháp lý hoặc bình luận về một văn bản luật nào đó.
1.2. Giải thích chính thức
Giải thích chính thức được đặc trưng ở chỗ: a) nó được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; b) là sự giải thích có hiệu lực pháp lý bắt buộc; c) nó được ghi nhận trong văn bản giải thích pháp luật.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức bao gồm: giải thích của chính cơ quan nhà nước đã trực tiếp ban hành văn bản quy phạm pháp luật đó, giai thích của cơ quan nhà nước được trao quyền (Chẳng hạn. theo Điều 9: Hiến pháp Việt Nam thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội được trao quyền giải thích Hiên pháp luật và pháp lệnh) hoặc được ủy quyền giải thích văn bản quy phạm pháp luật đó. Tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân đều buộc phải nhận thức và thực hiện đúng với nội dung, tinh thần các quy định pháp luật mà văn bản giải thích pháp luật chính thức đã đưa ra. Giải thích chính thức được chia ra hai loại, đó là giải thích mang tính quy phạm và giải thích cho những vụ việc cụ thể.
Sự giải thích mang tính quy phạm thường là kết quả của sư giải thích các văn bản luật, văn bản của cơ quan cấp trên, văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn bằng các văn bản có giá trị và hiệu lực pháp lý thấp hơn dưới dạng các văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo đảm sự thực hiện, áp dụng thống nhất luật pháp.
Sự giải thích chính thức cụ thể có hiệu lực đối với một vự việc pháp lý cụ thể. Còn đối với vụ việc pháp lý khác, nó không có giá trị.

2. Các phương pháp giải thích pháp luật
Để làm sáng tỏ một nội dung tư tưởng và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật, khoa học pháp lý đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật sau:
2.1. Phương pháp loại
Phương pháp sử dụng những suy đoán logic để làm sáng rõ nội dung quy phạm pháp luật. Phương pháp này thường được sử dụng trong trường hợp lời văn của quy phạm không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của nhà nước.
2.2. Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm
Là làn sáng tỏ nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng cậu, và xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng trong lời văn của nội dung quy phạm đó.
2.3. Phương pháp giải thích chính trị – lịch sử
Là phương pháp tìm hiểu nội dung tư tưởng quy phạm thông qua việc nghiên cứu các điều kiện hoàn cảnh chính trị – lịch sử đã dẫn đến việc ban hành quy phạm hoặc văn bản quy phạm pháp luật đó và nhiệm vụ chính trị mà là nước mong muốn đạt được khi ban hành quy định đó.
2.4. Phương pháp giải thích hệ thống
Là làm rõ nội dung, tư tưởng quy phạm pháp luật thông qua việc đối chiếu nó với các quy phạm khác; xác định vị trí của quy phạm đó trong chế định pháp luật, ngành luật cũng như trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Về mặt nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn. Theo cách này. nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được liệu theo đúng từng câu, từng chữ của nó. Đây là cách giải thích phổ biến nhất trong thực tế.
Tuy nhiên, có những trường hợp cần giải thích theo cách phát triển mở rộng, hoặc giải thích hạn chế.
Giải thích theo cách phát triển mở rộng là giải thích nội dung văn bản pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ văn bản, sao cho đúng với nghĩa đích thực mà nhà làm luật nuấn thể hiện trong quy phạm (nội dung lời giải thích rộng hơn so với nội dung lời văn của quy phạm pháp luật mà nó giải thích.
Giải thích hạn chế là cách giải thích nội dung văn bản pháp luật hẹp hơn so với nghĩa của từ ngữ trong văn bản (tức là so với nội dung mà ngôn ngữ trong văn bản đã thể hiện) sao cho đúng với ý nghĩa thực mà nhà làm luật muốn thể hiện trong quy phạm (nội dung lời giải thích hợp hơn so với nội dung lời văn của quy phạm pháp luật mà nó giải thích).
Giải thích mở rộng và giải thích hạn chế là những trường hợp ngoại lệ. Chúng không mâu thuẫn với pháp chế mà ngược lại là một trong những điều kiện để tăng cường pháp chế. Bởi vì, đây không phải là giải thích mở rộng hoặc hạn chế nội dung quy phạm một cách tuỳ tiện, mà nhằm bổ khuyết những thiếu sót của kỹ thuật lập pháp, làm cho các chủ thể thực hiện hiểu đúng nội dung thực sự của quy phạm, ý chí nhà nước đích thực được thể hiện trong đó. Do vậy, khi nào nhận thấy lời văn của quy phạm pháp luật thật sự rộng hơn hoặc hẹp hơn so với nội dung thật của nó thì mới được giải thích mở rộng hoặc hạn chế, bằng không việc giải thích mở rộng hoặc hạn chế đều là sự vi phạm pháp chế.
Cần lưu ý, các phương pháp, hình thức giải thích trên không loại trừ lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp giải thích quy phạm pháp luật. chúng ta phải tiến hành đồng thời các phương pháp đó để khắc phục, loại trừ sự nhận thức không đúng pháp luật.