Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

1. Khái niệm, đặc điểm của thủ tục rút gọn

Theo Từ điển tiếng Việt, rút gọn là “làm cho hình thức ngắn gọn hơn, đơn giản hơn: rút gọn nội dung, không thể rút gọn hơn được nữa”. Quy định về thủ tục rút gọn có ý nghĩa đối với tư pháp hình sự nói chung và bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, quy định thủ tục rút gọn đã khôi phục lại cách thức giải quyết vụ án hình sự theo hướng đơn giản hóa các thủ tục tố tụng đối với những vụ việc đơn giản, ít nghiêm trọng.

Thủ tục rút gọn lần đầu quy định chính thức trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW năm 2002 của Bộ Chính trị về định hướng cải cách tư pháp. Đây là một trình tự thủ tục tố tụng đặc biệt nhằm điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng những vụ án ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, nhân thân người phạm tội rõ ràng. Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn tiếp tục duy trì thủ tục rút gọn và đã khắc phục một số hạn chế, vướng mắc. Theo Điều 456 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thủ tục rút gọn được hiểu là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, được áp dụng để giải quyết những vụ án có người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.

Thủ tục rút gọn có những đặc điểm sau:

Một là, thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự. Nó được thể hiện ở việc rút ngắn về thời gian và giản gọn về tiến trình và cách thức giải quyết vụ án.

Ví dụ: Theo Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, đối với một vụ án ít nghiêm trọng theo thủ tục thông thường thì thời hạn điều tra là 02 tháng (Điểu 172), thời hạn truy tố là 20 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày. Trong khi đó, theo thủ tục rút gọn thì thời gian điều tra được rút ngắn xuống còn 20 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án (Điểu 460), thời hạn truy tố rút xuống 5 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đề nghị truy tố (giao hồ sơ đến Tòa án trong vòng 24 giờ kể từ khi ra quyết định truy tố) (Điều 461), thời hạn chuẩn bị xét xử rút xuống 10 ngày kể từ ngày thụ lý và phải mở phiên tòa trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 462).

Hai là, không phải mọi vụ án đều áp dụng được thủ tục rút gọn, việc áp dụng thủ tục rút gọn không áp dụng phổ biến đối với tất cả các trường hợp phạm tội mà chỉ áp dụng đối với những vụ án hội đủ các điều kiện pháp luật quy định.

Ví dụ: sáng sớm, A vào cửa hàng điện thoại của B xem điện thoại, trong lúc B không để ý, A lấy chiếc điện thoại trị giá 2500000 đồng bỏ vào túi quần và đi ra. Tuy nhiên, người bảo vệ vẫn theo dõi A và bắt quả tang A khi A chuẩn bị ra khỏi cửa hàng và chiếc điện thoại ở trong túi quần. A là người ở cùng trong khu phố với B, mọi người trong khu phố ai cũng biết rõ. Ở đây A bị bắt quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ là chiếc điện thoại; áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Do đó, ở đây các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án.

Hình minh họa. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

2. Mục đích, ý nghĩa của thủ tục rút gọn

Trên thực tế, có nhiều vụ án rất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, có đủ các điều kiện khác để Tòa án xác định hành vi của một người là có tội. Thủ tục rút gọn được quy định nhằm giải quyết một số vụ án được nhanh chóng, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích của người bị xâm hại, của Nhà nước và trật tự, an toàn xã hội một cách nhanh chóng nhất. Đó cũng là thực hiện chủ trương bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Ngoài ra, thủ tục rút gọn còn có mục đích tiết kiệm về mặt thời gian cũng như nguồn lực về con người và chi phí xã hội trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Các quy định về thủ tục rút gọn nhằm sớm phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời đối với những tội phạm ít nghiêm trọng, có tính chất đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Đồng thời, phục vụ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thủ tục rút gọn tiết kiệm thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết những vụ án đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng có điều kiện tập trung trách nhiệm vào việc giải quyết các vụ án nghiêm trọng, phức tạp.

Ngoài ra, thủ tục rút gọn còn có ý nghĩa nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý tội phạm. Giải quyết kịp thời quyền lợi cá nhân, tổ chức bị tội phạm xâm hại, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội.


3. Những điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn

Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thủ tục rút gọn trong việc giải quyết vụ án hình sự chỉ được tiến hành khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định. Các điều kiện bao gồm:

3.1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú.

Người phạm tội bị bắt quả tang là người phạm tội bị bắt khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt. Đặc điểm của việc bắt quả tang luôn thể hiện sự rõ ràng, đầy đủ và chính xác về mặt tình tiết cũng như chứng cứ về hành vi phạm tội và người phạm tội. Khi bị bắt quả tang thường chứng cứ rõ ràng, đầy đủ và người phạm tội khó có thể chối cãi về hành vi phạm tội của mình. Điểu đó dẫn đến vụ án không mang tính chất phức tạp, có đầy đủ chứng cứ để tiến hành truy tố, xét xử trong thời gian ngắn nhất theo thủ tục rút gọn.

Tự thú là việc một người đã thực hiện hành vi phạm tội, chưa bị ai phát hiện nhưng tự mình trình báo với cơ quan tiến hành tố tụng. Thông thường người phạm tội khi tự thú là đã thể hiện sự ăn năn hối cải của mình. Các tình tiết được khai lại thường chính xác, việc chứng minh của cơ quan tiến hành tố tụng cũng dễ dàng hơn và ít gặp khó khăn. Người tự thú thường trình bày đúng sự thật khách quan của vụ án, nếu có đủ các điều kiện khác nữa thì việc áp dụng thủ tục rút gọn là điều cẩn thiết để rút ngắn thời gian giải quyết vụ án.

3.2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng

Sự việc phạm tội được coi là đơn giản khi có ít người phạm tội, việc giải quyết vụ án không liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; hành vi phạm tội rõ ràng, cơ quan tiến hành tố tụng dễ xác định người phạm tội, nhân thân người phạm tội và hành vi phạm tội.

Chứng cứ rõ ràng là chứng cứ được thu thập ngay tại thời điểm người phạm tội bị bắt quả tang bao gồm những tang vật thu được tại hiện trường hoặc những chứng cứ được thu thập đầy đủ ngay từ đầu qua lời khai của người bị hại, người làm chứng… Những chứng cứ này thường là những chứng cứ trực tiếp chứng minh ngay hành vi tội phạm, phù hợp với các tình tiết của vụ án mà không cần phải đánh giá thêm các chứng cứ khác cũng đủ để căn cứ kết luận hành vi của một người đã cấu thành tội phạm.

3.3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm. Chính vì thế, việc giải quyết có thể đơn giản, nhanh chóng hơn, việc khắc phục hậu quả của tội phạm này cũng dễ dàng hơn so với các tội phạm khác.

3.4. Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng

Nhân thân người phạm tội luôn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tra, truy tố và xét xử. Qua xem xét nơi cư trú, xem xét lý lịch của người phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng xác định được nhân thân của họ. Nếu người phạm tội có nhân thân phức tạp, không có nơi cư trú ổn định, lý lịch không rõ ràng thì cơ quan tiến hành tố tụng phải mất nhiều thời gian cho việc xác minh lý lịch, cũng như tìm hiểu về nhân thân người phạm tội.

Trên đây là bốn điều kiện cần và đủ cho việc quyết định có hay không áp dụng thủ tục rút gọn trong việc giải quyết vụ án hình sự. Điều này có ý nghĩa là, một vụ án phải hội đủ đồng thời bốn điều kiện trên mới có thể áp dụng thủ tục rút gọn. Ngược lại, nếu thiếu một trong những điều kiện này, việc giải quyết vụ án sẽ được áp dụng bằng thủ tục chung.

Bài viết liên quan