Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ

Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối với lãnh thổ của mình. Chủ quyền đó gọi là quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Trong thực tiễn cũng như trong khoa học pháp lý quốc tế có nhiều học thuyết khác nhau về quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.

1. Bản chất các học thuyết về quyền tối cao đối với lãnh thổ

1.1. Thuyết tài vật

Hình thành trong thời kỳ các quốc gia phong kiến, thuyết tài vật quan niệm quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền sở hữu của nhà nước và quyền sở hữu này đặt dưới sự quyết định của người đứng đầu nhà nước. Từ đó phát sinh hiện tượng lãnh thổ của quốc gia trở thành vật được đem trao đổi, mua bán, chuyển nhượng hay thừa kế, thậm chí trở thành tặng vật để cầu hôn, cầu hoà… Thuyết này để lại khá nhiều hậu quả nặng nề trong quan hệ giữa các quốc gia.

1.2. Thuyết cai trị

Ra đời trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, thuyết cai trị coi lãnh thổ quốc gia là khoảng không gian trong đó tồn tại quyền lực nhà nước, là phạm vi chủ quyền được thi hành trong giới hạn của lãnh thổ vùng đất, vùng nước, vùng trời của quốc gia. Học thuyết này nhìn nhận lãnh thổ là khoảng không gian thực hiện quyền lực quốc gia, đồng thời là tài sản vật chất đặc biệt.

1.3. Thuyết thẩm quyền

Rúmi-xki đề xướng thuyết thẩm quyền vào năm 1906 và sau này Kensen, J.Rútxô và một số học giả khác phát triển thêm. Chủ trương của thuyết này chỉ đề cập mặt vật chất của lãnh thổ một cách tương đối còn nội dung cốt lõi của thuyết thẩm quyền là việc thừa nhận một tổng thể quyền lực của quốc gia sở tại và các quốc gia khác CÓ Công dân ở nước sở tại đó. Mặt trái của thuyết thẩm quyền là biện hộ cho chính sách bành trướng xâm lược và can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.

Hình minh họa. Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ

2. Nội dung của quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ

Quyển tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ được thể hiện ra ở hai phương diện cơ bản.

2.1. Phương diện quyền lực

Đây là sự tồn tại và phát triển của hệ thống cơ quan nhà nước với các hoạt động nhằm thực hiện quyền lực bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống một quốc gia. Quyền lực này mang tính hoàn toàn, riêng biệt, không chia xẻ với bất cứ quốc gia nào khác và là chủ quyền thiêng liêng của từng quốc gia. Tất cả dân cư và hoạt động diễn ra trên lãnh thổ quốc gia đều thuộc về quyền lực này. Quốc gia thực hiện quyền tài phán của mình đối với người và tài sản trong phạm vi lãnh thổ một cách không hạn chế (trừ trường hợp vì lợi ích của toàn thể Cộng đồng hay vì lợi ích của một số quốc gia nhất định và ý chí chủ quyền của nhân dân). Trên phạm vi lãnh thổ, quốc gia được quyền tiến hành mọi hoạt động với điều kiện các hành vi đó không bị luật quốc tế cấm. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành các hoạt động hợp pháp, quốc gia cũng phải lưu ý đến một nguyên tắc có tính tập quán là không sử dụng chủ quyền lãnh thổ của mình làm thiệt hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác. Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ không loại trừ các ngoại lệ đã xuất hiện trong thực tiễn quan hệ quốc tế như không áp dụng luật nước mình đối với các Công dân nước ngoài trên lãnh thổ nước mình (viên chức ngoại giao – lãnh sự) hoặc không loại bỏ hiệu lực của luật nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của mình nếu điều này được quy định trong luật quốc gia cũng như trong điều ước quốc tế. Ngược lại, hiệu lực pháp luật của các cơ quan quyền lực tư pháp có thể được mở rộng ra ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia nếu luật nước sở tại và điều ước quốc tế hữu quan cho phép.

Đi đôi với việc thực hiện chủ quyền lãnh thổ, quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác. Đây là nghĩa vụ xuất phát từ nguyên tắc quan trọng của luật quốc tế, Nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ, với một số nội dung sau:

– Cấm đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ;

– Biên giới quốc gia là ổn định và bất khả xâm phạm;

– Không sử dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự đồng ý của quốc gia đó;

– Không cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước thứ ba.

2.2. Phương diện vật chất

Ngày nay, theo quan niệm đúng đắn được chấp nhận rộng rãi thì môi trường tự nhiên của quốc gia – đất đai, trớc, không gian, rừng, khoáng sản, tài nguyên vùng lòng đất… là nội dung vật chất của lãnh thổ quốc gia và thuộc về quốc gia trong phạm vi được giới hạn bởi đường biên giới quốc gia. Quốc gia có quyền sở hữu một cách đầy đủ, trọn vẹn trên cơ sở phù hợp với lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó và phù hợp với các quyền dân tộc cơ bản. Mọi sự thay đổi hoặc định đoạt liên quan đến số phận của một vùng đất nào đó của lãnh thổ quốc gia phải dựa trên quyền dân tộc tự quyết mới được coi là hợp pháp.

Trong trường hợp thuê lãnh thổ quốc gia thì vùng lãnh thổ cho thuê vẫn là một bộ phận lãnh thổ quốc gia của nước cho thuê. Nước thuê lãnh thổ có quyền áp dụng quyền tài phán của mình (không phải chủ quyền, phù hợp với thoả thuận được ghi nhận giữa hai bên.

Điểm tiến bộ cơ bản của luật quốc tế hiện đại là đã xây dựng các nguyên tắc và quy định bảo đảm cho quốc gia được thực hiện các quyền tối cao của mình đối với lãnh thổ một cách hữu hiệu, duy trì liên tục và hoà bình quyền lực nhà nước trong phạm vi lãnh thổ thống nhất, toàn vẹn và bất khả xâm phạm.

3. Quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia

Nội dung quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia thể hiện qua các văn bản pháp luật quốc gia gồm:

– Quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, dưới bất kỳ hình thức nào;

– Quyền tự do lựa chọn phương hướng phát triển đất nước, thực hiện những cải cách kinh tế-xã hội phù hợp với các đặc điển của quốc gia. Các quốc gia khác có nghĩa vụ phải tôn trọng sự lựa chọn này;

– Quyền tự quy định chế độ pháp lý đối với từng vùng lãnh thổ của quốc gia;

– Quyền sở hữu hoàn toàn đối với tất cả tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ của mình;

– Thực hiện quyền tài phán đối với mọi công dân, tổ chức, kể cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ quốc gia (trừ trường hợp pháp luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế mà quốc gia tham gia hoặc ký kết có quy định khác);

– Quyền của quốc gia áp dụng các biện pháp cưỡng chế, điều chỉnh, kiểm soát hoạt động của các pháp nhân và người nước ngoài, kể cả các trường hợp quốc hữu hoá, tịch thu, trưng thu tài sản của tổ chức, cá nhân nước ngoài có bồi thường hoặc không có bồi thường;

– Quyền quyết định sử dụng, thay đổi lãnh thổ phù hợp với pháp luật và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên phần lãnh thổ đó.

Bài viết liên quan