1. Khái niệm tổ chức tín dụng
Hoạt động ngân hàng với tính chất là hoạt động kinh doanh có mức độ ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Do vậy, hoạt động ngân hàng cần phải được kiểm soát chặt chẽ thông qua quy định chỉ cho phép những chủ thể đáp ứng yêu cầu nhất định mới được thực hiện hoạt động kinh doanh này. Việc phát triển, mở rộng các chủ thể được quyền cung ứng dịch vụ ngân hàng tùy thuộc vào mức độ phát triển của từng quốc gia. Khái niệm tổ chức tín dụng được tiếp cận dưới góc độ là chủ thể thực hiện việc cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu.
Dưới góc độ các nghiệp vụ mà tổ chức tín dụng được cung ứng, tổ chức tín dụng là “ “Pháp nhân tiến hành các hoạt động tín dụng, ngân hàng chuyên nghiệp. Các tổ chức tín dụng cũng có thể cung cấp các dịch vụ phụ khác: dịch vụ hối đoái, kinh doanh vàng bạc và đá quý, đầu tư tài chính, kinh doanh chứng khoán… Ngoài ra, tổ chức tín dụng trong một số trường hợp và điều kiện nhất định cũng được phép góp vốn vào doanh nghiệp đang hoạt động hoặc doanh nghiệp mới thành lập”.
Pháp luật các nước cũng tiếp cận khái niệm tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng thương mại trên cơ sở hoạt động ngân hàng – hoạt động kinh doanh chủ yếu. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 4 Luật Ngân hàng thương mại, B.E.2505 của Thái Lan thì ngân hàng thương mại là ngân hàng và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài được cấp giấy phép tiến hành các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các hoạt động ngân hàng theo Luật Ngân hàng thương mại, B.E.2505 của Thái Lan bao gồm: (a) cấp tín dụng, (b) mua và bán hối phiếu ngoại thương hoặc các công cụ chuyển nhượng khác, (c) mua và bán ngoại tệ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Chỉ thị số 2996/48/EC ngày 14/06/2006 của Nghị viện và hội đồng châu Âu về việc thành lập và triển khai hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng (sửa đổi) thì tổ chức tín dụng là một công ty có hoạt động kinh doanh bao gồm việc nhận tiền gửi hoặc các khoản tài chính phải hoàn trả khác từ công chúng và dành các khoản tín dụng vào tài khoản riêng của mình; hoặc là một tổ chức tiền tệ điện tử theo nghĩa được nêu trong Chỉ Thị 2000/46/EC. Việc tiếp cận khái niệm tổ chức tín dụng căn cứ vào hoạt động kinh doanh chủ yếu của tổ chức tín dụng là hướng tiếp cận phù hợp, bởi lẽ, sự khác biệt cơ bản giữa tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp khác chính là ở các hoạt động kinh doanh chủ yếu.
Ở Việt Nam, khái niệm tổ chức tín dụng – với tư cách là chủ thể kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngân hàng được đề cập khi chúng ta chuyển từ mô hình ngân hàng một cấp sang mô hình ngân hàng hai cấp. Lúc đầu, pháp luật Việt Nam không sử dụng thuật ngữ tổ chức tín dụng mà sử dụng thuật ngữ ngân hàng chuyên doanh, thuật ngữ tổ chức tín dụng là gọi tắt của ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 chính thức đưa ra khái niệm tổ chức tín dụng. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 tiếp cận khái niệm tổ chức tín dụng dưới góc độ là một chủ thể kinh doanh với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Kế thừa các quy định của Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng”. Khác so với Luật các tổ chức tín dụng 1997, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 không quy định trực tiếp tổ chức tín dụng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà tính chất hoạt động của tổ chức tín dụng được hiểu thông qua khái niệm hoạt động ngân hàng. Theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Từ khái niệm tổ chức tín dụng được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 chúng ta có thể rút ra các đặc điểm của tổ chức tín dụng như sau:
Một là, tổ chức tín dụng là một chủ thể kinh doanh được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, để thực hiện hoạt động ngân hàng, nhà đầu tư, người thành lập tổ chức tín dụng phải lựa chọn mô hình doanh nghiệp phù hợp với từng loại hình tổ chức tín dụng được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần; Ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ; Tổ chức tín dụng phi ngân hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn; Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức hợp tác xã; Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Khác so với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khác, tổ chức tín dụng được thành lập để thực hiện hoạt động ngân hàng, chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Về tổ chức, tổ chức tín dụng vừa chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng vừa chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp và Luật Hợp tác xã; còn hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng chịu sự điều chỉnh của Luật các Tổ chức tín dụng và hướng dẫn nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ khác nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật.
Hai là, hoạt động thường xuyên mang tính chất là nghiệp vụ kinh doanh của tổ chức tín dụng là hoạt động ngân hàng. Chỉ tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép thì được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán.
Ba là, nội dung, phạm vi hoạt động ngân hàng bị chi phối bởi loại hình tổ chức tín dụng cung ứng. Chẳng hạn, ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận; tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ; Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống… Đây là đặc điểm cần lưu ý khi xác lập quan hệ kinh doanh với từng loại hình tổ chức tín dụng.

2. Phân loại tổ chức tín dụng
2.1. Căn cứ vào phạm vi, lĩnh vực hoạt động
Căn cứ vào phạm vi, lĩnh vực hoạt động, tổ chức tín dụng được chia làm 2 loại:
– Tổ chức tín dụng là ngân hàng Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 thì Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức tín dụng có phạm vi hoạt động rộng nhất.
Tùy theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các ngân hàng còn chia thành:
Ngân hàng thương mại: là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Ngân hàng hợp tác xã: là ngân hàng của tất cả các quỹ tín dụng nhân dân do các quỹ tín dụng nhân dân và một số pháp nhân góp vốn thành lập theo quy định nhằm mục tiêu chủ yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn trong hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân.
Ngân hàng chính sách: là một loại hình ngân hàng do nhà nước thành lập và đầu tư vốn để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước hoạt động phi lợi nhuận.
– Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
2.2. Căn cứ vào Luật các Tổ chức tín dụng
Căn cứ vào Luật các Tổ chức tín dụng, các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay bao gồm:
Ngân hàng thương mại: là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Công ty cho thuê tài chính: là loại hình công ty tài chính có hoạt động chính là cho thuê tài chính theo quy định của Luật này. Tổ chức tài chính vi mô: là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ24.
Quỹ tín dụng nhân dân: là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống25.
Ngân hàng hợp tác xã: là ngân hàng của tất cả các quỹ tín dụng nhân dân do các quỹ tín dụng nhân dân và một số pháp nhân góp vốn thành lập theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu chủ yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn trong hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân.
Tổ chức tín dụng nước ngoài: là tổ chức tín dụng được thành lập ở nước ngoài theo quy định của pháp luật nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài được hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài: là loại hình ngân hàng thương mại; công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài là loại hình công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là loại hình công ty cho thuê tài chính theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.
2.3. Căn cứ vào tiêu chí sở hữu vốn điều lệ của Tổ chức tín dụng
Căn cứ vào tiêu chí sở hữu vốn điều lệ của Tổ chức tín dụng, có thể chia các tổ chức tín dụng thành các nhóm: tổ chức tín dụng Nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần (dưới hình thức công ty cổ phần), tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng nước ngoài.
(i) Tổ chức tín dụng nhà nước: có vốn thuộc sở hữu của nhà nước, về bản chất là doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tiền tệ, do nhà nước ký quyết định thành lập (Thủ tướng Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Thống đốc ngân hàng ký quyết định thành lập), nhà nước cử người điều hành, quản trị. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức tín dụng Nhà nước là tổ chức tín dụng do Nhà nước sở hữu 100% vốn và được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
(ii) Tổ chức tín dụng cổ phần: được thành lập trên cơ sở một phần vốn góp của các cổ đông, về bản chất là một công ty cổ phần. Cổ đông góp vốn có thể là nhà nước, tổ chức, cá nhân khác đáp ứng điều kiện quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng do Ngân hàng nhà nước ký giấy phép thành lập. Mục tiêu hoạt động của tổ chức tín dụng cổ phần là tìm kiếm lợi nhuận như ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam…
(iii) Tổ chức tín dụng hợp tác: là loại hình tổ chức tín dụng mà vốn do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện đóng góp. Về hình thức pháp lý, ngân hàng Hợp tác xã được thành lập dưới hình thức hợp tác xã, hoạt động tuân theo Luật Hợp tác xã và Luật các Tổ chức tín dụng, do Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp giấy phép thành lập, thành phần lãnh đạo là Ban quản trị, ban chủ nhiệm do các xã viên bầu ra. Mục tiêu hoạt động của tổ chức tín dụng hợp tác là tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu, trường hợp người không phải là thành viên của Tổ chức tín dụng muốn vay phải có sự đồng ý của trên 2/3 thành viên là thành viên của Tổ chức tín dụng.
(iv) Tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài là loại hình tổ chức tín dụng có một phần vốn hoặc 100% vốn điều lệ là của bên nước ngoài. Có sự khác biệt so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở chỗ: bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam phải bắt buộc là các tổ chức tín dụng nước ngoài, không được là cá nhân, tổ chức nước ngoài. Mặt khác, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng
này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2.4. Căn cứ vào hình thức doanh nghiệp của tổ chức tín dụng
Căn cứ vào hình thức doanh nghiệp của tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng ở Việt Nam bao gồm:
– Tổ chức tín dụng là công ty cổ phần.
– Tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn.
– Tổ chức tín dụng là hợp tác xã.