Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là trường hợp tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
1. Căn cứ pháp lý
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
2. Cấu thành tội phạm
2.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm đến quyền được sống của con người.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi (cố ý) gây ra cái chết cho người đang có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác. Hậu quả của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là thiệt hại về thể chất – hậu quả chết người đang có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác.
Tội phạm này chỉ cấu thành khi thỏa mãn những điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi tấn công đang diễn ra và chưa kểt thúc. Tức là tại thời điểm diễn ra sự kiện người phạm tội có hành vi xâm hại đến tính mạng của người khác, thì người khác đó đang có hành vi tấn công người phạm tội.
Ví dụ: A cầm dao đuổi chém B, B dừng lại và nói “ nếu tiếp tục đuổi theo chém tôi, tôi sẽ giết anh Nhưng bất chấp lời cảnh báo đó A vẫn cầm dao đuổi chém B, không còn cách nào khác B liền dùng dao mang theo người xia một nhát sượt bả vai A, A chùn lại không đuổi theo B nữa. Thấy vậy, B ‘ liền xỉa tiếp nhát nữa về phía A khiến A gục ngay tại chỗ và chết trên đường đi cấp cứu. Hành vi phạm tội của B được xác định là phạm tội do vượt quả giới hạn phòng vệ chính đáng.
Thứ hai, không gian, thời gian, công cụ phương tiện sử dụng cũng như tương quan lực lượng giữa hai bên. Tức là sự kiện phạm tội đó diễn ra ở đâu; nơi đó có nhiều người qua lại không hay đó là nơi hoang vắng; tương quan lực lượng giữa hai bên như thế nào; công cụ và phương tiện mà các bên sử dụng trong quá trình phạm tội là gì… để xác định đối tượng phạm tội có ở trong tình trạng vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hay không.
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoàn thành khi hậu quả chết người xảy ra. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi (cố ý) gây ra cái chết cho người đang có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác với hậu quả chết người.
2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Động cơ phạm tội của người phòng vệ là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hoặc của người khác.
2.4. Chủ thể của tội phạm
Là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
3. Hình phạt
* Khung cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015 có mức phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
* Khung tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015 có mức phạt tù từ hai năm đến năm năm.
4. Phân biệt trường hợp phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Phân biệt trường hợp phạm tội này với trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở các điểm sau (tạm gọi giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là (1), giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là (2)):
+ Trong trường hợp (1), hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải đang diễn ra và chưa kết thúc; trường hợp (2), hành vi trái pháp luật của nạn nhân khiến tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh có thể đã kết thúc.
+ Trường hợp (1), tinh thần của người phạm tội có thể bị kích động (chưa đến mức mất tự chủ) hoặc không bị kích động; trường hợp (2), tinh thần của người phạm tội phải bị kích động mạnh.
+ Hành vi trái pháp luật của nạn nhân trong trường hợp (1) chỉ có thể bằng hành động; trường hợp (2) hành vi trái pháp luật có thể bằng hành động, lời nói…
+ Hành vi trái pháp luật của nạn nhân trong trường hợp (1) là đối với người phạm tội, Nhà nước, tổ chức, người khác; hành vi trái pháp luật ở trường hợp (2) là đối với người phạm tội hoặc người thân của họ.