Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức

1. Căn cứ pháp lý

Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức là hành vi của người đã sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan nhà nước, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng.

Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 340 Bộ luật Hình sự 2015:

Điều 340. Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức

1. Người nào sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch, các loại giấy chứng nhận hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện tội phạm hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Sử dụng giấy tờ, tài liệu đã bị sửa chữa hoặc làm sai lệch thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.


2. Cấu thành tội phạm của tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức

2.1. Khách thể cùa tội phạm

Tội phạm xâm phạm đến chế độ quản lý hành chính nhà nước về hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức; xâm phạm đến hoạt động và uy tín của các cơ quan, tồ chức trong lĩnh vực nêu trên.

Hình minh họa. Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

– Hành vi sửa chữa, làm sai lệch hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức được hiểu là hành vi thay thế hoặc sửa đổi ảnh chụp, thêm, bớt, tẩy, xoá chữ, hình con dấu, biểu tượng hoặc các dấu hiệu khác của các giấy tờ này bằng các thủ đoạn như dùng phương tiện kỹ thuật, dùng hoá chất… nhằm làm cho cơ quan, tổ chức, người có liên quan hiểu sai nội dung các giấy tờ.

Sửa chữa là tiền đề của hành vi sai lệch, nếu sửa chữa mà không làm sai lệch nội dung thì không cấu thành tội phạm.

– Sau khi sửa chữa, làm sai lệch các loại giấy tờ trên, người phạm tội có hành vi sử dụng các giấy tờ đã sửa chữa, làm sai lệch để thực hiện hành vi trái pháp luật. Sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật được hiểu là hành vi dùng một trong những giấy tờ nêu trên đã bị sửa chữa, làm sai lệch nội dung để thực hiện tội phạm hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khác. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội này với tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 BLHS.

– Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Hành vi sửa chữa, làm sai lệch hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận hoặc tài liệu khác của cơ quan, tổ chức gây hậu quả nghiêm trọng thì mới cấu thành tội phạm. Cho đến nay, chưa có văn bản của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi sửa chữa, làm sai lệch hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và thực tiễn xét xử thời gian qua thì tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng được hiểu là đã gây cản trở đối với các hoạt động bình thường hoặc làm mất uy tín của cơ quan, tổ chức hoặc đã gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ của công dân. Tuy nhiên, trong trường hợp chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng trước đó người phạm tội đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này thì cũng cấu thành tội phạm.

Cần lưu ý, các loại giấy tờ như hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch, giấy chứng nhận hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức là giấy thật, người phạm tội chi có hành vi sửa chữa về mặt nội dung mà thôi. Nếu người phạm tội biết tài liệu, giấy tờ trên là giả mà vẫn có hành vi sửa chữa, làm sai lệch thì tùy từng trường hợp có thể truy cứu TNHS về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 BLHS. Trường hợp hành vi sử dụng giấy tờ, giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức như nêu trên đủ yếu tố cấu thành tội phạm khác mà tội này có khung hình phạt nặng hơn thì người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị truy cứu TNHS về tội phạm đó.

Ví dụ: sửa chữa làm tăng diện tích đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bán lại cho người khác để thu lợi bất chính thì cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 BLHS. Nếu người phạm tội dùng giấy tờ đã bị sửa chữa với mục đích phạm tội thì phải truy cứu TNHS về tội mà họ đã phạm và tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và tài liệu của cơ quan tổ chức.

2.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét tính chất, mức độ của tội phạm và quyết định tội danh đối với người phạm tội.

2.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người đạt độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử cho thấy, những người có trách nhiệm trong việc cấp hoặc quản lý hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch, giấy chứng nhận và các tài liệu khác của cơ quan, tổ chức thường là đối tượng có nguy cơ cao do những điều kiện công tác của họ.


3. Hình phạt

Về hình phạt, trong cấu thành cơ bản, người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm (khoản 1). Nếu phạm tội theo khoản 2 Điều 340 BLHS, người phạm tội có thể phải chịu hình phạt tù từ hai năm đến năm năm. Các tình tiết tăng nặng định khung quy định tại khoản 2 Điều 340 BLHS bao gồm:

– Phạm tội có tổ chức: Đây là trường hợp từ hai người trở lên cấu kết chặt chẽ với nhau để thực hiện hành vi phạm tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức.

– Phạm tội nhiều lần: (Xem phần phân tích về tình tiết “ Phạm tội nhiều lần” của tội chống người thi hành công vụ)

– Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng: Tình tiết phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng có thể được áp dụng trong các trường hợp sau đây: gây dư luận rất xấu đối với cơ quan, tổ chức của nhà nước; gây cản trở nghiêm trọng đối với các hoạt động bình thường của nhiều cơ quan, tổ chức; gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cho cơ quan, tổ chức, kể cả chi phí cho việc khắc phục hậu quả, thiệt hại; để người khác lợi dụng phạm tội.

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm (khoản 3).

Bài viết liên quan