Trộm cắp tài sản là một loại tội phạm xảy ra nhiều và phổ biến nhất trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu. So với quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Tội trộm cắp tài sản được sửa đổi một số nội dung về cả dấu hiệu định tội lẫn các tình tiết định khung hình phạt.
1. Căn cứ pháp lý
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cụ thể:
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Tài sản là bảo vật quốc gia;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
2. Các yếu tố cấu thành tội phạm
2.1. Khách thể của tội phạm
Tội trộm cắp tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Do vậy cũng giống như các tội xâm phạm sở hữu khác, tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản. Để gây thiệt hại đến các quyền sở hữu về tài sản, người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác động đến tài sản của người chủ sở hữu. Như vậy, về nguyên tắc, đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản của người khác. Tuy nhiên, trong trường hợp người chủ tài sản đã giao tài sản cho người khác quản lý như cho mượn, giữ hộ… nhưng sau đó lại có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của mình thì vẫn có thể cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Về xác định tài sản là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản”
Để xác định tài sản là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” trước hết phải tìm hiểu quy định về tài sản tại Bộ luật dân sự 2015. Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 đã đưa ra định nghĩa “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Điều luật này cũng phân loại “tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Tuy nhiên không phải mọi loại tài sản như quy định của Bộ luật dân sự 2015 đều là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải có những đặc điểm nhất định, đó phải là tài sản có chủ sở hữu hoặc đang có sự quản lý (phải nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu hoặc những người có trách nhiệm quản lý tài sản), phải được thể hiện dưới một dạng vật chất cụ thể, tồn tại hữu hình, có giá trị và giá trị sử dụng, có thể nhìn thấy được và dịch chuyển được, bao gồm:
+ Là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước.
+ Là tài sản phải đang trong vòng kiểm soát của chủ sở hữu, người quản lý tài sản, kể cả tài sản do chiếm hữu không hợp pháp như: tài sản do phạm tội mà có; tài sản có được do mua nhầm của kẻ gian…
+ Là tài sản có giá trị hoặc giá trị sử dụng.
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình.
+ Tài sản là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Tài sản không phải là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản”:
+ “Quyền tài sản” mặc dù trị giá được bằng tiền nhưng không phải là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” do đây là một dạng tài sản vô hình, không nhìn thấy được, nó gắn liền với quyền nhân thân và cố định với một chủ thể cụ thể được pháp luật công nhận. Do đó, nó không thể bị dịch chuyển trái phép, bị chiếm đoạt bởi người khác được.
+ Tài sản là “bất động sản” cũng không phải là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” do nó có tính chất vật lý cố định, không thể dịch chuyển được như: đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai… Tuy nhiên, có một số động sản mà pháp luật dân sự quy định là bất động sản do công dụng của nó (tài sản gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng) như: cánh cửa gắn với ngôi nhà; cây cối trồng trên vườn… thì vẫn là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Những tài sản tuy là động sản, nhưng cũng không thuộc đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” như: Tài sản vô chủ (do đây loại tài sản mà chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó, khi không xác định được chủ sở hữu thì không thể có căn cứ chứng minh có sự xâm phạm quyền sở hữu hay chiếm đoạt trái phép); Tài sản bị rơi, bị bỏ quên, thất lạc (đây là những loại tài sản mà chủ sở hữu mất quyền trực tiếp nắm giữ, quản lý ngoài ý chí của mình)
+ Những tài sản không thuộc sở hữu của một chủ thể cụ thể và không có giá trị nếu không được khai thác, sử dụng như: nước biển, gió trời, không khí…
+ Những giấy tờ có giá trị nhưng không trực tiếp chuyển thành tiền được. Ví dụ như: Sổ tiết kiệm, hợp đồng mua bán, giấy nợ…
+ Tài sản thuộc các loại có tính chất và công dụng đặc biệt. Ví dụ như: vũ khí quân dụng, ma tuý, hàng cấm, máy bay, tàu thuỷ… Nếu người phạm tội trộm cắp những loại tài sản này thì tuỳ trường hợp cụ thể mà có thể phạm phải những tội phạm khác như: Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; tội chiếm đoạt chất ma tuý…
+ Theo Bộ luật dân sự 2015, bất động sản và động sản có thể là tài sản hình thành trong tương lai. Đây cũng không phải đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” do chưa có sự hiện hữu thực tế, không thể thực hiện hành vi chiếm đoạt khi chưa có sự tồn tại của tài sản, cũng không thể xác định chủ sở hữu đối với tài sản này.
Như vậy, để xác định tài sản là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản”, Cơ quan tiến hành tố tụng bên cạnh việc nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan còn cần căn cứ vào các điều kiện cụ thể trong từng trường hợp. Ví dụ: muốn xác định tài sản là di vật, cổ vật cần căn cứ vào các quy định của Luật Di sản văn hóa; việc xác định tài sản trộm cắp là phương tiện sống chính của người bị hại và gia đình thì tài sản đó phải là tài sản đặc biệt quan trọng, là chỗ dựa, phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình mà nếu mất đi tài sản đó thì người bị hại và gia đình lâm vào tình trạng khó khăn…

2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Đặc điểm nổi bật của tội “Trộm cắp tài sản” là người phạm tội có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút (bí mật). Hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Trên thực tế, hành vi này làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện được các quyền năng (gồm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hay quản lý) đối với tài sản của họ hoặc tài sản họ được giao quản lý. Tính chất lén lút (bí mật) của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội giấu diếm hành vi phạm tội của mình.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội trộm cắp tài sản được phân biệt với hành vi chiếm đoạt của các tội khác bởi hai dấu hiệu. Đó là dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ.
+ Thứ nhất, dấu hiệu lén lút: Hành vi chiếm đoạt tài sản của tội trộm cắp tài sản phải là hành vi lén lút lấy đi tài sản của người khác. Điều đó có nghĩa là, hình thức thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Đồng thời, lén lút cũng có nghĩa là người phạm tội cố tình che giấu hành vi phạm tội của mình đối với người chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản khi phạm tội. Trong thực tiễn, có một số trường hợp, người phạm tội có ý định trộm cắp tài sản của người khác và đã thực hiện ý định đó. Tuy nhiên, trong khi đang thực hiện hành vi khách quan của tội này hoặc ngay sau đó người phạm tội lại bị phát hiện, người phạm tội không thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút nữa mà họ tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn khác thì hành vi phạm tội có thể cấu thành các tội khác tùy từng trường hợp cụ thể.
+ Thứ hai, dấu hiệu tài sản đang có chủ: Tài sản là đối tượng của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản đang có chủ. Điều đó có nghĩa là tài sản còn nằm trong sự chiếm hữu của người chủ, tức là tài sản này đang chịu sự chi phối về mặt thực tế của người chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản. Người chủ tài sản có thể thực hiện các quyền sở hữu về tài sản như sử dụng, định đoạt tài sản… hoặc tài sản đang còn trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản.
Dấu hiệu chiếm đoạt trong cấu thành tội phạm Tội trộm cắp tài sản được thực tiễn xét xử từ trước đến nay hiểu là chiếm đoạt được. Để xác định thời điểm người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa, người ta chia ra thành các trường hợp: Một là, đối với loại tài sản nhỏ gọn thì thời điểm được coi là đã chiếm đoạt được tài sản là khi người phạm tội đã giấu chúng vào người hoặc giấu vào đồ vật mang theo; Hai là, đối với loại tài sản to lớn, cồng kềnh, khó cất giấu thì thời điểm được coi là đã chiếm đoạt được tài sản khi người phạm tội đã vận chuyển được chúng ra khỏi khu vực cất giữ hoặc bảo; Ba là, đối với tài sản không có khu vực bảo quan riêng thì thời điểm đã chiếm đoạt được tài sản là khi người lấy tài sản đã đưa chúng ra khỏi vị trí ban đầu.
Hành vi chiếm đoạt được tài sản chỉ coi là cấu thành Tội trộm cắp tài sản nếu thỏa mãn một trong các trường hợp sau:
– Tài sản trộm cắp có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên.
– Tài sản trộm cắp dưới 2 triệu đồng, nhưng thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
Nhìn chung, Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi về một số dấu hiệu định tội và định khung hình phạt. Cụ thể:
– Theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng chỉ cấu thành tội phạm nếu thuộc một trong ba trường hợp: Gây hậu quả nghiêm trọng; Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Tuy nhiên, quy định này trong Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi. Theo đó, chỉ duy nhất dấu hiệu “Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm” được giữ lại. Đối với dấu hiệu “Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” được thay đổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015 bằng cách nhà làm luật liệt kê các điều luật quy định về các tội phạm bị coi là có án tích. Nhìn chung những điều luật được liệt kê tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng là những điều luật quy định về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nhưng được bổ sung thêm một tội danh khác không nằm trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu như Điều 290 quy định về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bởi án tích về tội phạm này cũng được xem xét là một trong các dấu hiệu định tội đối với hành vi trộm cắp tài sản
– Dấu hiệu “Gây hậu quả nghiêm trọng” được thay thế bằng dấu hiệu “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Bên cạnh đó, nhà làm luật còn bổ sung thêm một trường hợp cũng bị xác định là tội phạm đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng, đó là “Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật”.
– Ngoài những thay đổi nêu trên, khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, còn sửa đổi thuật ngữ “giá trị” thành “trị giá”. Theo đó quy định “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ…” được sửa đổi thành “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ…”. Tác giả cho rằng, sự thay đổi này là phù hợp, đảm bảo tính thống nhất so với các thuật ngữ trong luật chuyên ngành. Mọi người thường hay nhầm lẫn hai khái niệm “giá trị” và “trị giá”. Theo đó, giá trị được hiểu là sự cảm nhận mang tính chủ quan của chủ thể đối với một sự vật, hiện tượng hay một trạng thái nào đó. Đối với một sản phẩm, tài sản, dịch vụ thì giá trị thường được hiểu là giá trị sử dụng và những tiện nghi mà sản phẩm, tài sản, dịch vụ đó mang lại. Còn trị giá là định giá một đồ vật hay một vật thể nào đó bằng tiền hay bằng một đơn vị thanh toán tương đương khác. Từ trước tới nay, đối với hành vi trộm cắp tài sản, việc định giá đối với tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh cũng như định khung hình phạt đối người phạm tội. Thực chất đó chính là trị giá của tài sản đó. Do vậy, để đảm bảo tính chính xác về thuật ngữ, việc sửa đổi thuật ngữ “giá trị” thành “trị giá” là điều cần thiết.
2.3. Mặt chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 trở lên. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội trộm cắp tài sản, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điều này.
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tình trạng sở hữu của tài sản, biết được tài sản họ chiếm đoạt là của người khác và mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó.
3. Hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
So với quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, hình phạt quy định trong Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 không có nhiều thay đổi ngoài việc bỏ hình phạt tù chung thân tại khoản 4 của điều luật. Theo đó, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định 4 khung hình phạt.
– Khung cơ bản quy định mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Khung tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
– Khung tăng nặng thứ 2 có mức phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
– Khung tăng nặng thứ 3 có mức phạt tù từ 12 năm đến 20.
Hình phạt bổ sung cho tội này là phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng.
Về dấu hiệu định khung hình phạt, nhìn chung những dấu hiệu định khung hình phạt đối với Tội trộm cắp tài sản nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung trong Bộ luật Hình sự năm 2015 không có nhiều thay đổi so với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999. Cụ thể, trong các khoản 2, 3 và 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, nhà làm luật bổ sung thêm trường hợp chiếm đoạt tài sản thỏa mãn dấu hiệu định khung về trị giá tài sản quy định tại khung hình phạt liền kề nhẹ hơn những thỏa mãn một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 của Điều luật đó là: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật.
Bên cạnh đó, khoản 3 và khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được bổ sung thêm tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” và “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”.