Vi phạm hành chính là gì? Các yếu tố cấu thành VPHC

1. Định nghĩa vi phạm hành chính

Vi phạm hành chính loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời sống hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho hội của thấp hơn so với tội phạm những vi phạm hành chính hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sng hội nếu như không được ngăn chặn xử kịp thời. Chính lẽ đó, công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm hành chính luôn vấn đề được hội quan tâm. Từ trước đến nay, Nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật quy đnh về vi phạm hành chính các biện pháp xử đối với loại vi phạm này, trong đó phải kể đến Nghị định s143/CP ngày 27/5/1977 của Chính phủ ban hành Điều lệ xử phạt vi cảnh, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989, Pháp lệnh xử vi phm hành chính ngày 6/7/1995, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002 văn bản đang hiệu lực pháp thi hành Luật xử vị phạm hành chính năm 2012 (Luật số 15/2012/QH13). Cùng với Luật xử vi phạm hành chính năm 2012, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các nghị định quy đnh cụ thể về việc xử các vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản hành chính nhà nước.

Để xác định tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm này, đặc biệt việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính tội phạm, tạo sở cần thiết để quy định, xử cũng như đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đưa ra định nghĩa chính thức về vi phạm hành chính.

Về phương diện lí luận cũng như thực tiễn, định nghĩa vi phạm hành chính phải phản ánh được những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm này đồng thời cũng phải thể hiện được sự khác biệt giữa chúng với tội phạm.

Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 Pháp lệnh này đã chỉ : Vi phạm hành chính hành vi do cá nhân, tổ chức thực hin một cách cố ý hoặc ý, xâm phạm các quy tắc quản nhà ớc kng phải tội phạm hình sự theo quy định của pháp luật phải bxử phạt hành chính.

Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính nhưng khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này đã định nghĩa vi phạm hành chính một cách gián tiếp, theo đó Xpht vi phạm hành chính được áp dụng đối với nhân, tổ chức hành vi cố ý hoặc ý vi phạm các quy tắc quản lí nhà nước chưa đến mức truy cứu trách nhiệm nh sự theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.

Tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử vi phạm hành chính năm 2002, vi phạm hành chính cũng được định nghĩa một cách gián tiếp: Xphạt vi phm hành chính đưc áp dụng đối với nhân, quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tchức) hành vi cố ý hoặc ý vi phạm các quy định của pháp luật về qun nhà nước không phải tội phạm theo quy định của pháp luật phải bxử phạt hành chính.

Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau về những dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Khái quát những dấu hiệu bản chất đó, khoản 1 Điều 2 Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 đã trực tiếp đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính, theo đó “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.

Hình minh họa. Vi phạm hành chính là gì? Các yếu tố cấu thành VPHC

2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính

Đxác định một hành vi xảy ra phải vi phạm hành chính hay không, cần xác định các dấu hiệu pháp của các yếu tố cấu thành loại vi phạm pháp luật này. Những dấu hiệu này đuợc tả trong các văn bản pháp luật quy đnh về vi phạm hành chính, hình thức biện pháp xử vi phạm hành chính.

2.1. Mặt khách quan

Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi tổ chức, nhân thực hiện hành vi xâm phạm các quy tắc quản nhà nước đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm. Việc bị ngăn cấm được thể hiện ràng trong các văn bản pháp luật quy đnh về xử phạt hành chính, theo đó, pháp luật quy định rằng những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp xử phạt hành chính. Như vậy, khi xem xét, đánh giá hành vi của nhân hay tổ chức phải vi phạm hành chính hay không, bao giờ cũng phải những căn cứ pháp ràng xác định hành vi đó phải được pháp luật quy định sẽ bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng nguyên tắc suy đoánhoặc áp dụng tương tự pháp luậttrong việc xác định vi phạm hành chính đối với các tổ chức nhân.

Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn thể sự kết hợp với những yếu tố khác. Thông thường, những yếu tnày thể :

+ Thời gian thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: Hành vi của người chỉ huy tàu bay không khóa chốt cửa buồng lái tàu baychỉ được coi vi phạm quy định về an ninh hàng không đối với cảng hàng không, sân bay, chuyến bay, quản hoạt động bay theo quy định của Điều 24 Nghị định của Chính phủ số 147/2013/NĐCP ngày 30/10/2013 khi thực hiện trong thời gian u bay đang bay.

+ Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: Việc chăn thả động vật mắc dịch của chủ vật nuôi chỉ bị coi vi phm về chống dịch bệnh động vật trên cạn nếu thực hiện ở các bãi chăn chungtheo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 6 Nghị định của Chính phủ số 119/2013/CP ngày 9/10/2013. B + Công cụ, phương tiện vi phạm. dụ: Hành vi quảng cáo tại cảng hàng không, sân bay chỉ bị coi vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân baytheo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định của Chính phủ số 147/2013/NĐCP ngày 30/10/2013 khi thực hiện bằng khinh khí cầu hoặc các vật thể bay khác;

+ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Nhìn chung hậu quả của vi phạm hành chính không nhất thiết thiệt hại cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hành vi của tổ chức, nhân bị coi vi phạm hành chính chỉ khi hành vi đó đã gây ra những thiệt hại cụ thể trên thực tế. dụ: Hành vi không thực hiện đầy đủ các biện pháp an toàn theo quy định khi làm việc theo phiếu công tác hoc lệnh công tácđược coi vi phạm quy định an toàn về điện khi gây tai nạn hoặc sự cốtheo quy định tại điểm g khoản 4 Điều 15 Nghị định của Chính phủ số 134/20013/CP ngày 17/10/2013. Trong các trường hợp này, việc xác đnh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính với thiệt hại cụ thể đã xảy ra cần thiết để bảo đảm nguyên tắc nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra chungtheo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 6 Nghị định của Chính phủ số 119/2013/CP ny 9/10/2013.

+ Công cụ, phương tiện vi phạm. Ví dụ: Hành vi quảng cáo tại cảng hàng không, sân bay chỉ bị coi vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân baytheo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định của Chính phủ số 147/2013/CP ngày 30/10/2013 khi thực hiện bằng khinh khí cầu hoặc các vật thể bay khác;

+ Hậu quả mối quan hệ nhân quả: Nhìn chung hậu quả của vi phạm hành chính không nhất thiết thiệt hại cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hành vi của tổ chức, nhân bị coi vi phạm hành chính chỉ khi hành vi đó đã gây ra những thiệt hại cụ thể trên thực tế. dụ: Hành vi không thực hiện đầy đủ các biện pháp an toàn theo quy đnh khi làm việc theo phiếu công tác hoặc lệnh công tácđược coi vi phạm quy định an toàn về điện khi gây tai nạn hoặc sự cốtheo quy định tại điểm g khoản 4 Điều 15 Nghị định của Chính phủ s134/20013/CP ngày 17/10/2013. Trong các trường hợp này, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính với thiệt hại cụ thể đã xảy ra cần thiết để bảo đảm nguyên tắc nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra.

2.2. Mặt chủ quan

Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi đủ căn cứ để cho rằng chủ thể thực hiện hành vi trong tình trạng không khả năng nhận thức hoặc khnăng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã không vi phạm hành chính xảy ra.

Ngi lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính, ở một số trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành chính. Chính vì thế, khi xử phạt cá nhân, tổ chức về loại vi phạm hành chính này cần phải xác định rõ ràng hành vi của họ có thoả mãn đầy đủ dấu hiệu mục đích hay không, ngoài việc xem xét các dấu hiệu khác. d: Hành vi không đăng khai tử cho người chết được coi vi phạm các quy định về đăng khai tử theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 31 Nghị định của Chính phủ s110/2013/CP ngày 24/9/2013 khi nhằm mục đích trục lợi.

Khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính, còn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lỗi của tổ chức. Có ý kiến cho rằng lỗi chỉ là trạng thái tâm lí của cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi phạm nên không đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp luật hành chính và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là đủ. Quan điểm khác lại cho rằng cần phải xác định lỗi của tổ chức khi vi phạm hành chính thì mới có đầy đủ cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức vi phạm. Theo quan điểm này, lỗi của tổ chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ chức đó khi thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao. Về phương diện pháp luật, Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 quy định chung rằng tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về một vi phạm hành chính do mình gây ra. Cùng với nội dung này, Nghị định của Chính phủ số 81/2013/NĐCP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều biện pháp thi hành Luật xử vi phạm hành chính xác định cán b, ng chức, viên chức thực hiện nh vi vi phạm khi đang thi hành công vụ, nhiệm vụ nh vi vi phạm đó thuộc công vụ, nhiệm vđược giao, thì không bxử phạt theo quy đnh của pháp lut về xử lí vi phạm hành chính, mà bị xử theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.

2.3. Chủ thể của vi phạm hành chính

Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhân chủ thể của vi phạm hành chính phải người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đđộ tuổi do pháp luật quy định, cụ thể :

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính trong trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, khi xác định người ở độ tuổi này có vi phạm hành chính hay không cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành không định nghĩa thế nào là lỗi cố ý hoặc vô ý trong vi phạm hành chính. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, thông thường người thực hiện hành vi với lỗi cố ý là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đoán nhưng vẫn cố tình thực hiện.

+ Ngưi từ đủ 16 tuổi trở lên thể chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp.

+ Tổ chức chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các quan nhà nước, các tổ chức hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng trang nhân dân các tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật;

nhân, tổ chức nước ngoài cũng chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế Việt Nam kết hoặc tham gia quy định khác.

2.4. Khách thể của vi phạm hành chính

Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các quan hệ hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản hành chính nhà nước được pháp luật hành chính quy định bảo vệ. Nói cách khác, vi phạm hành chính hành vi trái với các quy định của pháp luật về quản nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống hội như quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc về an ninh trật tự, an toàn hội... Điều đó đã được quy định trong các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước thẩm quyền.

Bài viết liên quan